Tự kỷ là gì? Nguyên nhân, dấu hiệu nhận biết và điều trị
Tự kỷ là một dạng rối loạn phát triển thần kinh, ảnh hưởng chủ yếu đến kỹ năng quan hệ xã hội, giao tiếp bằng lời nói và hành vi bất thường. Đây là tình trạng đang xảy ra ngày càng phổ biến, cứ 1000 trẻ em sẽ có 2 – 5 trẻ bị tự kỷ. Việc phát hiện và điều trị sớm có thể giúp hạn chế bệnh tiến triển nghiêm trọng.
Tự kỷ là gì?
Bệnh tự kỷ còn được gọi là chứng rối loạn phổ tự kỷ (Autism Spectrum Disorder/ ASD). Đây là một rối loạn phát triển với các triệu chứng xuất hiện trong vòng 3 năm đầu đời. Hầu hết trẻ mắc chứng ASD trông giống như những đứa trẻ khác nhưng chúng hành động và tương tác theo cách khác với hành vi của những đứa trẻ thông thường. Khi tương tác với người khác, chúng có thể phản đối theo những cách không mong muốn. Hoặc chúng cũng có thể hoàn toàn không tương tác.
Tự kỷ là một rối loạn phổ, tức là nó xuất hiện ở nhiều dạng và mức độ nghiêm trọng khác nhau. Một số cá nhân phát triển các khả năng điển hình về lời nói và ngôn ngữ. Họ có thể phát triển các kỹ năng đặc biệt nhưng lại phải vật lộn với những khác biệt về hành vi và xã hội suốt cuộc đời.
Trong khi đó, những người khác có thể gặp trở ngại trong giao tiếp, nhạy cảm các giác quan và các vấn đề về hành vi. Chẳng hạn như hành vi lặp đi lặp lại, nổi cáu quá mức, gây hấn và tự làm hại bản thân.
Trong nhiều năm, chẩn đoán về bệnh tự kỷ rất hiếm, chỉ xảy ra ở 1 trong số 2.000 trẻ em. Tuy nhiên, kể từ những năm 1980 thì tỷ lệ ASD đã gia tăng mạnh mẽ trên khắp thế giới.
Vào tháng 3 năm 2020, Trung tâm Kiểm soát Dịch bệnh Liên bang Hoa Kỳ đã công bố, cứ 54 trẻ em ở Hoa Kỳ sẽ có 1 đứa trẻ bị ảnh hưởng bởi chứng ASD. Tự kỷ có nhiều khả năng ảnh hưởng tới bé trai hơn là bé gái. Tuy nhiên ASD lại có xu hướng nghiêm trọng hơn ở nữ giới.
Ở Việt Nam hiện nay tỷ lệ mắc bệnh tự kỷ đã tăng lên khoảng 50 lần so với giai đoạn 2000 – 2007. Đặc biệt ở TPHCM thì tỷ lệ này tăng lên tới 160 lần. Đây chính là thách thức lớn đối với y học và xã hội. Nếu không sớm tìm ra các phương pháp tối ưu thì ASD sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến bản thân người bệnh và trở thành gánh nặng cho toàn xã hội.
Dấu hiệu nhận biết chứng tự kỷ
Phạm vi của các triệu chứng bệnh tự kỷ rất khác nhau. Một số trẻ có thể xuất hiện các triệu chứng ASD trong giai đoạn sơ sinh. Chẳng hạn như giảm giao tiếp bằng mắt, không đáp lại khi được gọi tên hay thờ ơ với người chăm sóc.
Trong khi đó, những đứa trẻ khác có thể phát triển bình thường trong vài tháng hay vài năm đầu đời. Tuy nhiên sau đó lại đột nhiên trở nên thu mình, hung dữ hoặc mất dần các kỹ năng ngôn ngữ mà chúng đã có. Các dấu hiệu này thường được nhìn thấy khi trẻ khoảng 2 tuổi.
Mỗi trẻ mắc bệnh tự kỷ sẽ có khả năng có một kiểu hành vi và mức độ nghiêm trọng riêng. Thường là từ hoạt động thấp tới hoạt động cao. Một số trẻ mắc chứng ASD gặp khó khăn trong học tập, có dấu hiệu trí tuệ thấp hơn bình thường.
Tuy nhiên những đứa trẻ khác mắc rối loạn này cũng có thể có trí thông minh từ bình thường đến cao. Chúng học hỏi nhanh chóng nhưng lại gặp khó khăn trong giao tiếp. Đồng thời khó áp dụng những cách chúng biết trong cuộc sống thường ngày và thích nghi với các tình huống xã hội.
Do có sự hỗn hợp của các triệu chứng riêng biệt ở từng trẻ nên đôi khi sẽ khó xác định được mức độ nghiêm trọng của ASD. Nó thường dựa trên mức độ suy giảm cũng như tác động của nó đến khả năng hoạt động của trẻ.
Dưới đây là một số dấu hiệu thường thấy giúp nhận biết chứng tự kỷ:
1. Giao tiếp và tương tác xã hội
Trẻ em hoặc người lớn mắc chứng rối loạn phổ tự kỷ có thể gặp phải vấn đề với các kỹ năng giao tiếp và tương tác xã hội. Các dấu hiệu có thể bao gồm:
- Không phản ứng khi được gọi tên hoặc đôi khi có thể không nghe thấy.
- Chống lại việc ôm ấp và có vẻ thích chơi một mình hơn. Luôn muốn rút lui vào thế giới của riêng mình.
- Giao tiếp bằng mắt kém, thiếu biểu cảm trên khuôn mặt.
- Không nói được, bị chậm nói hay mất khả năng nói từ hoặc câu trước đó đã biết.
- Không thể bắt đầu hoặc tiếp tục một cuộc trò chuyện. Hoặc đôi khi chỉ bắt đầu một cuộc trò chuyện để đưa ra yêu cầu.
- Nói với nhịp điệu bất thường, có thể sử dụng giọng nói giống như rô-bốt.
- Lặp lại nguyên văn các từ hoặc cụm từ nhưng lại không hiểu cách sử dụng chúng.
- Dường như không thể hiểu các câu hỏi hay những hướng dẫn đơn giản.
- Không thể hiện cảm xúc và dường như không hiểu về cảm xúc của người khác.
- Tiếp cận tương tác xã hội một cách thụ động, không phù hợp, hung hăng hoặc gây rối.
- Khó nhận ra các tín hiệu phi ngôn ngữ chẳng hạn như tư thế cơ thể, diễn giải nét mặt hay giọng nói của người khác.
2. Các dấu hiệu hành vi
Trẻ em và người lớn mắc chứng ASD có thể có các kiểu hành vi, sở thích hay hoạt động hạn chế, lặp đi lặp lại. Các dấu hiệu thường thấy bao gồm:
- Lặp đi lặp lại các hành vi giống nhau. Điều này có thể bao gồm vỗ tay, xoay tròn, bập bênh, búng ngón tay,… Ngoài ra họ có thể chơi với đồ vật theo những cách khác thường. Chẳng hạn như quay đồng xu, quay đĩa một cách không mệt mỏi, bật liên tục các công tắc đèn.
- Phát triển các thói quen hoặc nghi thức cụ thể. Họ thường khó chịu hoặc bị xáo trộn khi có bất cứ thay đổi nào dù là nhỏ nhất.
- Có vấn đề về phối hợp hoặc có một số kiểu cử động kỳ lạ. Chẳng hạn như vụng về, đi kiễng chân, có ngôn ngữ cơ thể kỳ quặc, cường điệu hoặc cứng nhắc.
- Bị mê hoặc bởi các chi tiết của một đồ vật cụ thể. Chẳng hạn như bánh xe quay của một chiếc ô tô đồ chơi. Tuy nhiên lại không hiểu mục đích, chức năng tổng thể của đồ vật đó.
- Nhạy cảm bất thường với âm thanh, ánh sáng hoặc xúc giác. Nhưng có thể lại thờ ơ với cơn đau và nhiệt độ.
- Không tham gia vào các trò chơi giả tạo hoặc bắt chước.
- Có sở thích cụ thể về thực phẩm. Chẳng hạn như chỉ ăn một vài loại thực phẩm hay từ chối các thực phẩm có kết cấu nhất định.
- Tự gây thương tích bằng cách đập đầu, cắn vào tay hay chà xát, gãi da quá mức.
Khi trưởng thành, một số trẻ mắc chứng tự kỷ có thể hòa đồng hơn với những người khác. Đồng thời ít có biểu hiện rối loạn hành vi hơn. Những người có vấn đề ít nghiêm trọng nhất cuối cùng có thể có được cuộc sống bình thường hoặc gần như bình thường.
Tuy nhiên, những người khác vẫn sẽ tiếp tục gặp khó khăn với các kỹ năng ngôn ngữ và xã hội. Trong đó, những năm thiếu niên có thể mang tới các vấn đề về cảm xúc và hành vi tồi tệ hơn.
3. Các vấn đề khác đi kèm
Một số tình trạng y tế có thể liên quan tới chứng tự kỷ. Chúng thường được gọi là bệnh đi kèm hay tình trạng đồng thời xảy ra. Chúng có thể bao gồm:
- Co giật
- Nhạy cảm cảm giác
- Lo lắng
- Rối loạn giấc ngủ
- Rối loạn điều hòa đường tiêu hóa
- Trao đổi chất và miễn dịch
Phân loại bệnh tự kỷ
Bệnh tự kỷ được phân thành nhiều loại khác nhau, tùy theo từng tiêu chí cụ thể. Bao gồm:
– Theo thời điểm mắc tự kỷ:
- Tự kỷ điển hình (ASD bẩm sinh): Các triệu chứng ASD xuất hiện dần dần trong vòng 3 năm đầu đời.
- Tự kỷ không điển hình (ASD mắc phải): Trẻ phát triển về ngôn ngữ và giao tiếp rất bình thường trong 3 năm đầu. Sau đó, triệu chứng ASD xuất hiện dần dần và có sự thoái triển về ngôn ngữ – giao tiếp.
– Theo chỉ số thông minh:
- Tự kỷ có chỉ số thông minh cao và nói được: Trẻ không có những hành vi tiêu cực nhưng lại rất thụ động và có hành vi bất thường trong bối cảnh xã hội. Có thể biết đọc sớm (2 – 3 tuổi), kỹ năng nhìn tốt, có xu hướng bị ám ảnh và nhận thức tốt hơn về các hành vi khi trưởng thành.
- Tự kỷ có chỉ số thông minh cao và không nói được: Trẻ có sự khác biệt giữa kỹ năng nói và kỹ năng cử động, vận động, thực hiện. Trẻ có thể quá nhạy cảm khi kích thích thính giác. Hành vi có thể bất thường ở mức độ nhẹ. Kỹ năng nhìn tốt (trẻ có thể nhìn các đồ vật một cách chăm chú). Thường giữ yên lặng hoặc tự cô lập, có thể bướng bỉnh. Là những trẻ thích giao tiếp hoặc có thể giao tiếp luân phiên.
- Tự kỷ có chỉ số thông minh thấp và nói được: Hành vi của trẻ kém nhất trong các dạng tự kỷ. Trẻ có thể thường xuyên la hét to và trở nên hung hãn khi tuổi lớn hơn. Có hành vi tự kích thích, trí nhớ kém. Trẻ thường nói lặp lại (lời nói không có nghĩa đầy đủ) và tập trung kém.
- Tự kỷ có chỉ số thông minh thấp và không nói được: Trẻ thường xuyên im lặng, chỉ biết dùng 1 ít từ hoặc ít cử chỉ. Có sự quan tâm đặc biệt với máy móc. Nhạy cảm với các âm thanh/ tiếng động. Trẻ có các kỹ năng xã hội không thích hợp và không có mối quan hệ với người khác,
– Theo mức độ:
- Tự kỷ mức độ nhẹ: Trẻ vẫn có khả năng giao tiếp bằng mắt tương đối bình thường. Tuy nhiên giao tiếp với người ngoài hơi hạn chế. Trẻ học được các hoạt động đơn giản, kỹ năng chơi và nói được vẫn ở mức tương đối bình thường.
- Tự kỷ mức độ trung bình: Trẻ có thể giao tiếp bằng mắt và giao tiếp với người ngoài hạn chế. Trẻ cũng có thể nói được nhưng hạn chế.
- Tự kỷ mức độ nặng: Trẻ không biết giao tiếp bằng mắt, đồng thời không giao tiếp với người ngoài và không nói được.
Các nguyên nhân gây bệnh tự kỷ
Mặc dù đã trải qua nhiều nghiên cứu nhưng nguyên nhân chính xác gây bệnh tự kỷ cho đến nay vẫn chưa được xác định. Một số nguyên nhân và yếu tố được cho là có liên quan đến cơ chế bệnh sinh bao gồm:
– Tổn thương não hoặc não bộ kém phát triển do:
- Sinh non tháng dưới 37 tuần
- Cân nặng khi sinh thấp dưới 2.500g
- Chấn thương sọ não do can thiệp sản khoa
- Ngạt hoặc bị thiếu oxy não khi sinh
- Thiếu oxy não do suy hô hấp nặng
- Vàng da nhân não sơ sinh
- Chảy máu não – màng não sơ sinh
- Nhiễm khuẩn thần kinh như viêm màng não, viêm não
- Nhiễm độc thủy ngân
- Chấn thương sọ não
– Yếu tố di truyền:
- Bất thường về nhiễm sắc thể
- Bệnh di truyền theo gen hoặc theo nhóm gen
– Yếu tố môi trường:
- Môi trường sống ít có kích thích đến sự phát triển của trẻ trong vòng 24 tháng đầu. Chẳng hạn như chủ yếu cho trẻ xem vô tuyến truyền hình, âm nhạc, quảng cáo,… thay cho sự quan tâm và dạy dỗ của cha mẹ, gia đình.
- Một số hóa chất hoặc kim loại nặng có thể gây tổn thương não.
Ảnh hưởng của bệnh tự kỷ
Tự kỷ là dạng rối loạn phát triển thần kinh nghiêm trọng. Chứng bệnh này ảnh hưởng tới hoạt động của não bộ, gây ra khiếm khuyết trên nhiều khía cạnh. Do khởi phát sớm nên bệnh tự kỷ ảnh hưởng rất nhiều tới sức khỏe, sự phát triển trí tuệ cũng như chất lượng cuộc sống của trẻ.
Những khiếm khuyết về mặt ngôn ngữ, lập luận, tư duy và hành vi khiến cho người bệnh tự kỷ khó lòng duy trì cuộc sống như bình thường. Người bệnh gần như không thể kết bạn do khả năng giao tiếp hạn chế và khó biểu đạt được ý nghĩ qua lời nói. Họ có xu hướng sống thu mình và tự cô lập.
Các nghiên cứu chỉ ra rằng, cả trẻ em và người lớn mắc chứng ASD đều có nhiều khả năng phát triển các căn bệnh tâm thần khác. Chẳng hạn như trầm cảm, rối loạn lo âu, rối loạn ám ảnh cưỡng chế. Người trưởng thành bị tự kỷ không thể quan hệ tình dục và tiến tới hôn nhân ngay cả khi có tình cảm nam nữ.
Do có nhiều khiếm khuyết nên người mắc chứng ASD rất khó có thể học tập và lao động giống như bình thường. Điều này lâu dần sẽ gây ra tâm lý bi quan, chán ghét bản thân. Người bệnh có thể trở thành gánh nặng cho gia đình và xã hội. Một số trường hợp tự kỷ kết hợp với trầm cảm còn dẫn tới hành vi tự hủy hoại và tự sát.
Thăm khám và chẩn đoán bệnh tự kỷ
Khám sàng lọc chứng tự kỷ thường sẽ do bác sĩ nhi khoa thực hiện trong quá trình khám sức khỏe định kỳ cho trẻ. Bác sĩ có thể quan sát đứa trẻ hoặc hỏi phụ huynh những câu hỏi về hành vi của trẻ ở nhà và khi tương tác với những đứa trẻ khác.
Mục đích của việc khám sàng lọc là để xác định dấu hiệu ban đầu thường gặp của chứng tự kỷ. Các dấu hiệu này có thể bao gồm:
- Chậm giao tiếp với người khác, gồm cả lời nói và cử chỉ
- Không trả lời tên của chính mình
- Khó chịu bởi những thay đổi nhỏ trong thói quen
- Né tránh các hình thức tiếp xúc cơ thể
- Tỏ ra ít quan tâm tới đồ vật hoặc con người
Các bác sĩ có thể sử dụng một loạt các công cụ để sàng lọc chứng tự kỷ. Chúng có thể bao gồm từ quan sát đơn giản cho tới đánh giá chính thức. Một số công cụ thường được dùng phổ biến là:
- M-CHAT (Danh sách kiểm tra sửa đổi cho chứng tự kỷ ở trẻ mới biết đi): Đây là một bài kiểm tra gồm 20 câu hỏi phổ biến được thiết kế cho trẻ mới biết đi từ 16 cho đến 30 tháng tuổi.
- ASQ (Bảng câu hỏi về độ tuổi và giai đoạn): Đây là một công cụ sàng lọc phát triển chung nhằm xem xét những thách thức phát triển ở các độ tuổi cụ thể.
- STAT (Công cụ sàng lọc ASD ở trẻ mới biết đi và trẻ nhỏ): Là một công cụ sàng lọc tương tác bao gồm 12 hoạt động đánh giá việc chơi, giao tiếp và bắt chước của trẻ.
- PEDS (Đánh giá của cha mẹ về tình trạng phát triển): Đây là một cuộc phỏng vấn chung cho cha mẹ về sự phát triển được xây dựng để xác định các tình trạng chậm phát triển về vận động, ngôn ngữ, khả năng tự lực và hơn thế nữa.
Chẩn đoán chứng tự kỷ thường dựa trên biểu hiện lâm sàng. Các bác sĩ chuyên khoa thường căn cứ vào các tiêu chí được mô tả trong Sổ tay Chẩn đoán và Thống kê về Rối loạn Tâm thần (DSM-5) do Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ sản xuất.
DSM-5 công nhận 2 tiêu chuẩn chẩn đoán rộng rãi cho chứng tự kỷ:
- Thiếu hụt liên tục trong giao tiếp và tương tác xã hội
- Các mẫu hành vi, sở thích hay hoạt động bị hạn chế và lặp đi lặp lại
Những triệu chứng này thường xuất hiện sớm trong cuộc đời. Nó có thể làm gián đoạn sự phát triển xã hội, cảm xúc cũng như nhận thức của trẻ. Sau khi được chẩn đoán ASD, trẻ cần được can thiệp điều trị đúng cách để hạn chế các vấn đề ảnh hưởng.
Cách điều trị bệnh tự kỷ
Cho đến nay, việc điều trị bệnh tự kỷ vẫn còn gặp phải rất nhiều khó khăn. Bệnh không thể điều trị khỏi hoàn toàn mà chỉ có thể cải thiện một phần. Tuy nhiên, can thiệp sớm sẽ giúp hạn chế nguy cơ bệnh tiến triển nặng.
Số liệu thống kê cho thấy, chỉ có khoảng 1- 2% người bệnh có khả năng bình thường hóa cuộc sống và có nghề nghiệp để tự nuôi sống bản thân. Có 2/3 người trưởng thành bị tự kỷ phải sống trong bệnh viện hoặc sống hoàn toàn phụ thuộc vào gia đình.
Điều trị tự kỷ cần có sự phối hợp của nhiều phương pháp khác nhau. Ngoài ra, người bệnh cần phải nhận được sự hỗ trợ từ phía gia đình để bình thường hóa cuộc sống. Các phương pháp trị liệu thường được đề nghị cho bệnh tự kỷ bao gồm:
1.Giao tiếp, lời nói và ngôn ngữ
Phát triển kỹ năng giao tiếp, lời nói và ngôn ngữ là một phần quan trọng của bệnh tự kỷ. Bất kể trình độ sử dụng ngôn ngữ của người tự kỷ là gì thì họ cũng đều có mức độ khó khăn giao tiếp – xã hội nhất định. Trị liệu ngôn ngữ và lời nói có thể bắt đầu từ 18 tháng tuổi.
Một chuyên gia bệnh học âm ngữ (SLP) được đào tạo để có thể xử lý các vấn đề về ngôn ngữ, lời nói, giao tiếp và đôi khi là cả các vấn đề ăn uống. Họ có thể giúp giải quyết nhiều vấn đề bao gồm:
- Yêu cầu sự giúp đỡ và phản đối thích hợp
- Các kỹ năng đối thoại giúp xây dựng các mối quan hệ
- Chủ động bắt đầu và duy trì hoạt động chơi
- Nhận biết những manh mối bằng lời và phi ngôn
- Học các thời điểm thích hợp cho các mục đích giao tiếp cụ thể
- Đánh giá kỹ năng giao tiếp tăng cường và thay thế
2. Hoạt động trị liệu
Những người mắc ASD có thể sẽ nhận được lợi ích từ hoạt động trị liệu (OT). Một nhà hoạt động trị liệu sẽ làm việc với người bệnh. Mục đích là để tăng cường các kỹ năng của họ trong hoạt động sống. Chẳng hạn như vui chơi và học hành đối với trẻ em.
Chuyên gia sẽ giúp người bệnh xác định những yếu tố khiến cho họ không thể tham gia đầy đủ vào các hoạt động điển hình trong đời sống hằng ngày. Thường là ăn uống, vệ sinh thân thể, chơi, viết, đi học hoặc làm việc,…
Nhiều người mắc ASD có thể gặp khó khăn với việc xử lý thông tin giác quan. Hoặc họ có thể tiếp nhận các thông tin xung quanh theo cách hiệu quả. Điều này có thể khiến họ khó điều chỉnh hành vi, sự chú ý và cảm xúc. Trị Liệu Tổng Hợp Giác Quan (SI) sẽ giúp giải quyết các vấn đề này. Trong khi đó, hoạt động trị liệu (OT) lại là chuyên môn chính tham gia lập kế hoạch điều trị.
Một số lợi ích mà nhà hoạt động trị liệu mang đến cho bệnh nhân tự kỷ:
- Lập kế hoạch các trò chơi nhằm tăng cường sự phối hợp tay – mắt
- Điều chỉnh tín hiệu giác quan nhằm cải thiện khả năng xử lý
- Thay đổi môi trường bằng công nghệ hoặc sử dụng các thiết bị khác nhau
- Áp dụng nhiều cách khác nhau để tích hợp vận động thân thể cho trẻ
3. Vật lý trị liệu chữa tự kỷ
Các kỹ năng vận động ảnh hưởng tới cách mà một người vận động cơ thể để thực hiện một nhiệm vụ. Đôi khi người tự kỷ có các kỹ năng vận động phát triển kém hơn. Nếu rơi vào trường hợp này thì vật lý trị liệu (PT) có thể giúp ích.
Một nhà vật lý trị liệu sẽ xử lý các giới hạn thể chất để giúp một người phát triển cơ bắp, khả năng giữ thăng bằng cũng như phối hợp cần thiết cho các hoạt động thường ngày.
4. Liệu pháp hành vi
Liệu pháp hành vi cho chứng tự kỷ có thể bao gồm:
– Phân tích hành vi ứng dụng (ABA):
Theo nghiên cứu, ABA là biện pháp can thiệp được hỗ trợ hiệu quả nhất cho những người mắc chứng ASD. Liệu pháp này sử dụng các nguyên tắc hành vi dựa theo bằng chứng khoa học trong các tình huống hằng ngày.
Trị liệu ABA nhằm đạt mục tiêu giúp tăng/ giảm các hành vi khác nhau. Tất cả chương trình ABA đều có chung các thành phần tương tự. Bao gồm dạy chuyên môn, sự tham gia của cha mẹ, dạy các kỹ năng để có thể sử dụng ở nhà, ở trường hay ở các môi trường khác. ABA luôn phải mang tính vui chơi và khích lệ đối với trẻ em.
– Liệu pháp hành vi – nhận thức (CBT):
Liệu pháp hành vi – nhận thức (CBT) là một nhóm các kỹ năng được nghiên cứu, có hiệu quả trong điều trị các vấn đề mà cả trẻ em và người lớn gặp phải. CBT có hiệu quả với chứng rối loạn lo âu, trầm cảm, dạy cách kiểm soát stress, kiểm soát sự giận dữ và cải thiện các kỹ năng liên quan.
Mục tiêu của CBT là giúp người bệnh tìm hiểu cảm xúc, suy nghĩ và hành vi có liên quan như thế nào. CBT dạy cách xác định những niềm tin không có ích và cách phát triển các mô thức hành vi tích cực hơn.
CBT có ích với những người mắc tự kỷ nhưng vẫn có đủ các kỹ năng nói, khả năng suy nghĩ về cảm xúc, nhận thức và hành vi của mình. CBT có thể thực hiện cho các cá nhân hoặc trong các nhóm. CBT sẽ giúp người bệnh cải thiện kỹ năng giao tiếp và tư duy xã hội.
5. Các phương pháp trị liệu và biện pháp can thiệp hỗ trợ khác
Có nhiều phương pháp trị liệu chưa được nghiên cứu kỹ lưỡng để điều trị ASD nhưng có thể mang lại nhiều lợi ích. Chẳng hạn như:
- Liệu pháp âm nhạc
- Liệu pháp nghệ thuật
- Liệu pháp Chelation
- Tập thể dục thích nghi
- Động vật trị liệu
Các liệu pháp này có thể hỗ trợ các kỹ năng xã hội, nâng cao sự tự tôn cũng như xây dựng sự tự tin. Từ đó giúp phát triển các kỹ năng vận động và cải thiện chất lượng cuộc sống cho những người mắc bệnh tự kỷ.
6. Thuốc theo toa
Hiện tại vẫn chưa có loại thuốc theo toa nào được sản xuất đặc trị bệnh tự kỷ. Tuy nhiên, một số thuốc có thể giúp cải thiện hiệu quả các triệu chứng liên quan. Chẳng hạn như hung hăng, tăng động, giảm chú ý, rối loạn giấc ngủ, trầm cảm hoặc thay đổi tâm trạng.
Các loại thuốc có thể được dùng bao gồm:
- Thuốc an thần kinh/ chống loạn thần Haloperidol (Haldol)
- Các chất ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (SSRIs)
- Thuốc chống loạn thần Risperidone (Risperdal)
- Thuốc Naltrexone (đối kháng opioid)
Sử dụng thuốc thường sẽ được áp dụng đồng thời với liệu pháp hành vi. Mục đích là để uốn nắn và kiểm soát các hành vi xã hội. Điển hình nhất là hành vi tự gây thương tích, gây hấn hoặc phá hoại.
Cần thảo luận về bất cứ sự thay đổi hành vi nào với bác sĩ. Đồng thời thông tin cho bác sĩ được biết về tất cả các thuốc đang dùng (bao gồm cả thuốc mua tự do, vitamin hoặc thảo dược bổ sung) để theo dõi sự tương tác hoặc các tác dụng phụ liên quan.
7. Chế độ ăn cho người tự kỷ
Một số người báo cáo là có sự cải thiện về chức năng sau khi thay đổi chế độ ăn. Hai chế độ ăn thường gặp nhất được sử dụng bởi các gia đình có thành viên mắc chứng ASD là chế độ ăn không gluten, casein và chế độ ăn không có men.
Tốt nhất nên xây dựng chế độ ăn đặc biệt, tránh xa các thực phẩm dễ gây dị ứng. Nên bổ sung thực phẩm giàu vitamin (nhất là vitamin nhóm B), khoáng chất và các axit béo lành mạnh.
8. Sự hỗ trợ của gia đình
Sự hỗ trợ từ phía gia đình được đánh giá là yếu tố đóng vai trò rất quan trọng trong điều trị tự kỷ. Đặc biệt là với những trẻ đã có khả năng nhận thức sự khác biệt giữa bản thân với những người xung quanh. Sự thiếu hiểu biết về bệnh tình có thể tạo cho trẻ tâm lý lo lắng, bối rối và khó xử.
Song song với việc điều trị cho cá nhân thì người thân trong gia đình cũng cần được trang bị các kiến thức nhằm hiểu và chấp nhận hành vi của con trẻ. Bên cạnh đó, người thân cũng cần nắm vững các kỹ năng nhằm giải quyết và đối phó với những khó khăn mà con mình gặp phải.
Sự hỗ trợ từ phía gia đình sẽ giúp cho con trẻ có thể tự sinh hoạt. Đồng thời học được cách hòa nhập và dần thích nghi với những người xung quanh.
Phòng ngừa bệnh tự kỷ
Các chuyên gia cho biết, không có biện pháp phòng ngừa bệnh tự kỷ hoàn toàn. Tuy nhiên, thực hiện tốt các biện pháp sau đây có thể giúp nguy cơ mắc bệnh giảm đi đáng kể:
- Khám thai thường quy để có thể phát hiện sớm các bệnh lý của mẹ bầu và tình trạng bất thường của thai nhi gây tổn thương não của trẻ.
- Khám sức khỏe cho trẻ thường quy (nhất là trẻ sơ sinh có nguy cơ cao) hàng quý trong 24 tháng đầu đời để có thể phát hiện sớm các rối loạn phát triển, trong đó có chứng tự kỷ.
- Phụ nữ mang thai cần được tư vấn dinh dưỡng và tiêm chủng để hạn chế tình trạng thiếu chất. Đồng thời giảm nguy cơ mắc phải các bệnh truyền nhiễm trong thai kỳ. Ngoài ra, các mẹ bầu cần hạn chế tiếp xúc với thủy ngân cũng như các kim loại nặng.
- Lựa chọn cơ sở y tế uy tín để sinh nở. Điều này giúp hạn chế tối đa các tổn thương não ở trẻ sơ sinh.
Tự kỷ là dạng rối loạn phát triển thần kinh đang xảy ra ngày càng phổ biến. Cần sớm phát hiện và có biện pháp điều trị đúng đắn để cải thiện bệnh. Các bậc phụ huynh nên trang bị thêm kiến thức về chứng bệnh này để giúp đỡ con mình khi trẻ không may bị tự kỷ.
Tham khảo thêm:
- Liệu trẻ sơ sinh có bị trầm cảm? Làm sao nhận biết?
- Thực trạng áp lực điểm số làm học sinh mệt mỏi stress
- 10 Dấu hiệu nhận biết trẻ bị tự kỷ và hướng chữa trị
Trở thành người đầu tiên bình luận cho bài viết này!