Rối Loạn Lưỡng Cực Là Gì? Nguyên Nhân, Biểu Hiện Và Điều Trị
Rối loạn lưỡng cực (Bipolar Disorder) là một dạng rối loạn cảm xúc khá phổ biến với tỷ lệ mắc bệnh chiếm 1% dân số thế giới. Bệnh lý này đặc trưng bởi sự thay đổi cực độ của cảm xúc, bao gồm các giai đoạn hưng cảm xen kẽ trầm cảm hoặc cũng có thể xuất hiện cùng lúc.
Rối loạn lưỡng cực là gì?
Rối loạn lưỡng cực (Tiếng Anh: Bipolar Disorder) còn được gọi là rối loạn cảm xúc lưỡng cực, bệnh lưỡng cực và rối loạn hưng – trầm cảm. Thuật ngữ này đề cập đến một dạng rối loạn tâm thần gây ra sự thay đổi cực độ của cảm xúc bao gồm cảm xúc giảm thấp (trầm cảm) và cảm xúc hưng phấn (hưng cảm). Các giai đoạn trầm cảm, hưng cảm thường xuất hiện xen kẽ nhưng cũng có khi xuất hiện trong cùng một giai đoạn và thường sẽ có một cực chiếm ưu thế hơn cực kia.
Rối loạn lưỡng cực được xếp vào nhóm rối loạn cảm xúc. Theo số liệu thống kê, khoảng 1% dân số thế giới đang đối mặt với chứng bệnh này. Bệnh thường khởi ở tuổi vị thành niên và trong giai đoạn từ 20 – 30 tuổi. Trong khi trầm cảm gặp nhiều ở nữ giới thì nguy cơ mắc rối loạn lưỡng cực ngang bằng ở cả hai giới.
Tương tự như các rối loạn tâm thần khác, rối loạn lưỡng cực làm giảm rõ rệt hiệu suất lao động, học tập và tương tác xã hội. Bệnh lý này cũng làm gia nguy cơ tự tử – nhất là trong các pha trầm cảm. Đến nay, nguyên nhân gây bệnh vẫn chưa được biết rõ và quá trình điều trị còn khá nhiều hạn chế. Chính vì vậy, khoảng 1/3 bệnh nhân phải sống chung với bệnh lý này trong suốt cuộc đời.
Các dạng rối loạn lưỡng cực
Rối loạn lưỡng cực được chia thành nhiều dạng khác nhau dựa vào triệu chứng lâm sàng. Hiện tại, bệnh lý này được chia thành 3 loại bao gồm rối loạn lưỡng cực I, II và rối loạn khí sắc chu kỳ.
- Rối loạn lưỡng cực I: Rối loạn lưỡng cực I được xác định khi có sự hiện diện đầy đủ của một giai đoạn hưng cảm điển hình. Trước hoặc sau các cơn hưng cảm là các cơn trầm cảm hoặc hưng cảm nhẹ. Trong cơn hưng cảm, bệnh nhân có thể gặp phải các triệu chứng loạn thần.
- Rối loạn lưỡng cực II: Được xác định khi có ít nhất một giai đoạn trầm cảm điển hình và ít nhất một giai đoạn hưng cảm nhẹ. Đồng thời hoàn toàn không có giai đoạn hưng cảm đầy đủ. Rối loạn lưỡng cực II nghiêng về trầm cảm nhiều hơn nên ảnh hưởng chủ yếu đến nữ giới.
- Rối loạn khí sắc chu kỳ: Rối loạn khí sắc chu kỳ bao gồm các giai đoạn hưng cảm nhẹ và trầm cảm nhẹ xuất hiện xen kẽ trong vòng một năm (đối với trẻ em, thanh thiếu niên) và hai năm (đối với người lớn).
Rối loạn lưỡng cực là một dạng rối loạn cảm xúc có triệu chứng đa dạng. Các triệu chứng không giống nhau ở mỗi người và cũng có sự khác biệt rõ rệt ở từng giai đoạn. Trong đó, rối loạn lưỡng cực I chiếm ưu thế về các cơn hưng cảm và rối loạn lưỡng cực II có trầm cảm chiếm ưu thế. Trong khi đó, rối loạn khí sắc chu kỳ (rối loạn cảm xúc chu kỳ) thường có biểu hiện nhẹ hơn, thời gian tiến triển ngắn và ít gây ra những hậu quả nghiêm trọng.
Biểu hiện của bệnh rối loạn lưỡng cực
Rối loạn lưỡng cực có triệu chứng đa dạng và biểu hiện có thể thay đổi tùy theo giai đoạn. Các triệu chứng của bệnh thường xuất hiện cấp tính, sau đó lặp đi lặp lại theo chu kỳ và thuyên giảm dần. Sau khi thuyên giảm, bệnh nhân có thể quay trở lại cuộc sống như bình thường nhưng cũng có người phải đối mặt với các triệu chứng tồn dư và gặp phải nhiều phiền toái khi học tập, làm việc.
Sau các đợt cấp tính, bệnh có thể tái phát với các giai đoạn riêng biệt với mức độ nghiêm trọng hơn, có thể là hưng cảm, trầm cảm nhẹ, trầm cảm điển hình hoặc các đặc điểm hỗn hợp. Các giai đoạn có thể kéo dài từ vài tuần cho đến 3 – 6 tháng.
Không chỉ khác biệt về biểu hiện, chu kỳ – thời gian khởi phát một giai đoạn cho đến giai đoạn tiếp theo cũng có sự khác biệt ở từng bệnh. Một số bệnh nhân có chu kỳ nhanh (hơn 4 giai đoạn/ năm) nhưng cũng có người chỉ gặp phải một vài giai đoạn trong suốt cuộc đời. Đa phần trong các chu kỳ, một cực sẽ nổi trội hơn cực còn lại, trong đó hưng cảm chiếm ưu thế ở nam giới và còn trầm cảm chiếm ưu thế đối với nữ giới.
Các nhóm triệu chứng của rối loạn lưỡng cực:
1. Hưng cảm và hưng cảm nhẹ
Hưng cảm là tình trạng khí sắc tăng đặc trưng bởi sự phấn khởi, lạc quan, vui vẻ, tăng các hoạt động thể chất và cơ thể luôn tràn trề năng lượng dù giảm nhu cầu ăn, ngủ. Trong các cơn hưng cảm, bệnh nhân rất dễ bị kích thích và khó kiểm soát bản thân. Các đặc điểm này phải đi kèm với hơn 3 triệu chứng sau:
- Giảm nhu cầu ngủ
- Phóng đại về năng lực, ngoại hình của bản thân và tăng tính tự trọng
- Tư duy dồn dập, phi tán thể hiện qua tình trạng xuất hiện các luồng suy nghĩ liên tục, nói nhiều, liến thoắng, giảm khả năng tập trung và hay bị phân tán
- Nói chuyện liên tục và nói nhiều hơn so với bình thường
- Tăng các hoạt động thể chất, thậm chí kích động và gây hấn nếu khí sắc tăng quá mức
- Có hành vi thiếu suy nghĩ, nông nổi không màng đến hậu quả như đầu tư rủi ro, mua sắm quá mức, đua xe, quan hệ tình dục không an toàn, đánh bạc,…
Có thể thấy, khí sắc tăng cao trong các cơn hưng cảm khiến bệnh nhân có những hành vi bản năng và ngông cuồng không nghĩ đến hậu quả. Những triệu chứng này ảnh hưởng nhiều đến việc học tập, nghề nghiệp và các hoạt động sinh hoạt thường ngày. Tuy nhiên trong trạng thái hưng cảm, bệnh nhân tin rằng mình đang ở trạng thái tinh thần tốt nhất vì cơ thể luôn tràn trề năng lượng và tinh thần vui vẻ, lạc quan.
Ngoài hưng cảm, bệnh nhân rối loạn lưỡng cực có thể xuất hiện các cơn hưng cảm nhẹ. Tình trạng này có mức độ ít nghiêm trọng hơn hưng cảm. Hưng cảm nhẹ thường kéo dài ít nhất 4 ngày trở lên và đặc trưng bởi các triệu chứng như:
- Khí sắc tươi sáng tạo tinh thần vui vẻ, lạc quan
- Giảm nhu cầu ngủ
- Nói nhanh nhưng rõ nghĩa và không dồn dập như giai đoạn hưng cảm
- Tăng sự tự tin, sáng tạo
Hưng cảm nhẹ đôi khi mang đến nhiều lợi ích đối với cuộc sống. Trong giai đoạn này, bệnh nhân luôn tràn trề năng lượng, tự tin, sáng tạo và có khả năng giao tiếp tốt. Vì khí sắc chỉ tăng ở mức độ vừa phải nên người bệnh vẫn có thể duy trì các hoạt động làm việc, học tập và sinh hoạt như bình thường.
Tuy nhiên, một số bệnh nhân gặp phải các triệu chứng khó chịu trong các cơn hưng cảm nhẹ như:
- Khí sắc không ổn định
- Dễ cáu gắt, bực bội
- Dễ bị phân tán, thiếu sự tập trung
2. Giai đoạn trầm cảm
Ngược lại với hưng cảm là trầm cảm – trạng thái cảm xúc giảm thấp. Trầm cảm điển hình thường xuất hiện trong rối loạn lưỡng cực II. Ở hai dạng còn lại, bệnh nhân có thể xuất hiện trạng thái trầm cảm với những biểu hiện nhẹ hơn được gọi là trầm cảm nhẹ.
Trầm cảm điển hình đặc trưng bởi khí sắc trầm buồn, mất đi sự hứng thú và quan tâm với mọi thứ. Tình trạng này kéo dài trong ít nhất 2 tuần và đi kèm với ít nhất 5 triệu chứng sau:
- Bệnh nhân có khí sắc trầm buồn, chán nản chiếm gần hết thời gian trong ngày
- Giảm đáng kể sự quan tâm, hứng thú với mọi thứ xung quanh – bao gồm cả những sở thích trước đây
- Giảm năng lượng dẫn đến mệt mỏi, uể oải
- Mất ngủ (thường là hay tỉnh giấc giữa đêm) hoặc ngủ nhiều quá mức
- Giảm hoặc tăng khẩu vị dẫn đến giảm/ tăng cân không chủ đích
- Có cảm giác tội lỗi và cho rằng bản thân vô dụng dù điều này không đúng với thực tế
- Thiếu quyết đoán, mất khả năng tập trung và tư duy chậm chạp
- Suy nghĩ liên tục về cái chết, có ý nghĩ hoặc đang lên kế hoạch tự sát
3. Giai đoạn hỗn hợp
Ngoài trầm cảm, hưng cảm và hưng cảm nhẹ, bệnh nhân rối loạn lưỡng cực cũng có thể gặp phải các giai đoạn hỗn hợp. Giai đoạn này được xác định khi cơn hưng cảm/ hưng cảm nhẹ đi kèm với ít nhất 3 triệu chứng trầm cảm xuất hiện trong hầu hết các ngày của giai đoạn.
So với các giai đoạn hưng cảm hoặc trầm cảm, giai đoạn hỗn hợp thường có nguy cơ tự sát cao do bệnh nhân chuyển trạng thái chu kỳ liên tục. Ngoài ra, do triệu chứng có sự hòa trộn giữa nhiều trạng thái cảm xúc nên quá trình chẩn đoán cũng mất rất nhiều thời gian.
4. Một số triệu chứng đi kèm
Bên cạnh những biểu hiện đặc trưng kể trên, bệnh nhân rối loạn lưỡng cực còn có thể gặp phải một số triệu chứng đi kèm, thường là loạn thần, lo âu và các triệu chứng thể chất. Trong rối loạn lưỡng cực I và II, bệnh nhân dễ gặp phải tình trạng lo lắng, u sầu và căng thẳng do những ảnh hưởng của bệnh đối với cuộc sống. Đặc biệt, những trường hợp nặng có thể đi kèm với loạn thần:
- Hưng cảm có triệu chứng loạn thần thường là các ảo giác, ảo thanh và hoang tưởng với nội dung tự cao, phóng đại bản thân,… Ngoài ra, bệnh nhân cũng có thể xuất hiện ảo giác cho rằng mình đang bị theo dõi hoặc hoang tưởng với nội dung liên quan đến tình dục.
- Ngược lại, trong các cơn trầm cảm, bệnh nhân chủ yếu có các biểu hiện loạn thần như ảo thanh, ảo giác và hoang tưởng về việc bản thân bị trừng phạt, chì chiết và bình phẩm trước những lỗi lầm đã gây ra. Trầm cảm đi kèm với loạn thần khiến người bệnh đau khổ sâu sắc và đôi khi dẫn đến hành vi tự sát.
Nguyên nhân gây rối loạn lưỡng cực
Nguyên nhân gây rối loạn lưỡng cực (bệnh hưng – trầm cảm) chưa được làm rõ. Tuy nhiên, một số yếu tố đã được xác định có tham gia vào cơ chế bệnh sinh. Các yếu tố có liên quan đến bệnh hưng – trầm cảm bao gồm:
- Di truyền: Hầu hết các rối loạn tâm thần đều có khả năng di truyền và điều này cũng diễn ra với rối loạn lưỡng cực. Các chuyên gia nhận thấy, nguy cơ mắc bệnh tăng lên đáng kể nếu có người thân cấp 1 có tiền sử mắc bệnh (bao gồm bố mẹ hoặc anh chị em ruột). Tuy nhiên, các chuyên gia vẫn chưa tìm ra gen có liên quan đến cơ chế di truyền của bệnh lý này.
- Rối loạn chất dẫn truyền thần kinh: Các chất dẫn truyền thần kinh trong não bộ có vai trò chi phối cảm xúc và các hoạt động của nhiều cơ quan trong cơ thể. Hầu hết bệnh nhân bị rối loạn cảm xúc nói chung và rối loạn lưỡng cực nói riêng đều có sự mất cân bằng của các chất này, đặc biệt là norepinephrine và serotonin.
- Các yếu tố nguy cơ: Ngoài di truyền và mất cân bằng các chất dẫn truyền thần kinh, bệnh hưng trầm cảm còn có liên quan đến các yếu tố như lạm dụng rượu bia, chất gây nghiện, căng thẳng cao độ (mất người thân, tai nạn khủng khiếp, vỡ nợ, bản thân mắc bệnh mãn tính, nan y,…).
Hiện tại, các chuyên gia vẫn chưa tìm ra nguyên nhân chính xác đối với hầu hết các rối loạn tâm thần. Chính vì vậy, quá trình điều trị những bệnh lý này còn nhiều hạn chế và thách thức.
Rối loạn lưỡng cực gây ra những biến chứng gì?
Người xung quanh có thể dễ dàng nhận thấy những bất thường về cảm xúc và hành vi của người bị rối loạn lưỡng cực. Tuy nhiên, bệnh nhân có thể không nhận thấy tình trạng này và thường gạt phắt đi khi người khác đề nghị thăm khám, điều trị. Đặc biệt, một số bệnh nhân còn cảm thấy đang ở trạng thái tốt nhất trong cơn hưng cảm. Với khí sắc tăng cao, bệnh nhân sẽ dễ dàng kết bạn, tăng tính sáng tạo và học tập, làm việc hiệu quả.
Tuy nhiên, sự hưng phấn quá mức sẽ đi kèm với nhiều rủi ro như các hành vi gây hấn, vi phạm pháp luật, vấn đề tài chính và mâu thuẫn trong các mối quan hệ. Ngoài ra, các hành vi ngông cuồng trong giai đoạn này còn làm gia tăng những thiệt hại về thân thể và sức khỏe như chấn thương do đua xe, nhiễm các bệnh xã hội do quan hệ tình dục không an toàn,…
Ngoài ra, trong các cơn trầm cảm và giai đoạn hỗn hợp, bệnh nhân có thể hình thành ý nghĩ và hành vi tự sát. Một số bệnh nhân sử dụng rượu bia và chất gây nghiện để xoa dịu nỗi buồn sâu sắc, sự bi quan và mặc cảm tội lỗi. Nếu không được điều trị, bệnh nhân sẽ phải đối mặt với nhiều vấn đề trong cuộc sống và có thể mắc phải các vấn đề tâm lý khác như rối loạn lo âu, rối loạn tăng động giảm chú ý, rối loạn ăn uống,…
Chẩn đoán rối loạn lưỡng cực
Rối loạn lưỡng cực có triệu chứng đa dạng và đôi khi có sự hòa trộn giữa hưng cảm, hưng cảm nhẹ với trầm cảm. Để chẩn đoán bệnh lý này, bác sĩ sẽ sử dụng các kỹ thuật sau:
- Chẩn đoán thông qua biểu hiện lâm sàng theo tiêu chuẩn DSM – 5
- Đo mức TSH và Thyroxine (T4) để loại trừ khả năng cường giáp
- Test nước tiểu để loại trừ việc sử dụng thuốc và các chất kích thích hệ thần kinh trung ương
Rối loạn lưỡng cực chỉ được chẩn đoán khi các triệu chứng gây ra những ảnh hưởng đáng kể đối với chức năng xã hội, hiệu suất lao động và học tập. Ngoài ra, bệnh nhân cũng có thể phải thực hiện thêm một số chẩn đoán để loại trừ rối loạn phân liệt cảm xúc – một dạng rối loạn tâm thần có biểu hiện hưng cảm, trầm cảm và các triệu chứng của tâm thần phân liệt (bao gồm cả loạn thần). Bên cạnh đó, việc mắc đồng thời nhiều bệnh lý cũng gây ra khó khăn trong quá trình chẩn đoán rối loạn lưỡng cực.
Các phương pháp điều trị bệnh rối loạn lưỡng cực
Như đã đề cập, rối loạn lưỡng cực thường phát triển qua 3 pha. Ban đầu, các triệu chứng xuất hiện cấp tính, sau đó tiếp diễn cho đến khi thuyên giảm. Cuối cùng, bệnh sẽ thuyên giảm hoàn toàn. Mục tiêu của điều trị là giữ cho bệnh nhân ở trạng thái thuyên giảm để có thể ổn định cuộc sống và phòng tránh những hậu quả do hưng cảm, trầm cảm gây ra.
Những trường hợp bị rối loạn khí sắc chu kỳ thường được điều trị ngoại trú. Trong khi đó, rối loạn lưỡng cực I và II có thể phải điều trị nội trú trong các đợt cấp tính để tránh nguy cơ tự sát và những hậu quả nghiêm trọng do các hành vi liều lĩnh. Tương tự như các rối loạn cảm xúc khác, phương pháp chính cho rối loạn lưỡng cực là sử dụng thuốc và trị liệu tâm lý.
1. Sử dụng thuốc
Sử dụng thuốc là phương pháp chính cho trong điều trị bệnh hưng – trầm cảm. Tùy vào giai đoạn bệnh và mức độ triệu chứng, bác sĩ sẽ cân nhắc chỉ định loại thuốc phù hợp. Sau khi triệu chứng đã thuyên giảm, bệnh nhân cần dùng thuốc duy trì để phòng ngừa tái phát.
Các loại thuốc được sử dụng trong pha hưng cảm:
- Thuốc ổn định khí sắc và chống co giật như Carbamazepine, Valproic acid,…
- Thuốc an thần kinh/ thuốc chống loạn thần được sử dụng để giảm ảo giác, hoang tưởng, kích động và các hành vi bất thường. Các loại thuốc được sử dụng phổ biến bao gồm Aripiprazole, Quetiapine, Risperidone, Olanzapine,…
- Thuốc an thần nhóm Benzodiazepine được dùng để kiểm soát hưng cảm, cải thiện giấc ngủ, giảm bất an và kích động. Loại thuốc được dùng phổ biến nhất là Seduxen.
- Thuốc điều chỉnh khí sắc, thường dùng nhất là Lithium. Thuốc có hiệu quả nhanh trong việc ổn định khí sắc và đa phần các triệu chứng đều thuyên giảm nhanh sau 2 tuần điều trị.
Các loại thuốc được dùng trong các pha trầm cảm:
- Thường là các loại thuốc chống trầm cảm bao gồm chất ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (SSRIs), chất ức chế tái hấp thu serotonin và norepinephrine (SNRIs), thuốc chống trầm cảm 3 vòng, thuốc ức chế monoamine oxidase,…
- Có thể dùng kèm với thuốc chống loạn thần nếu có ảo giác và hoang tưởng.
- Thuốc chống trầm cảm chỉ được sử dụng trong một thời gian ngắn và người nhà cần phải theo dõi chặt chẽ để kịp thời ngưng thuốc ngay khi bệnh nhân chuyển sang trạng thái hưng cảm.
Các loại thuốc được dùng duy trì để phòng ngừa bệnh tái phát:
- Thuốc chống co giật (Carbamazepine, Gabapentin, Valproic acid, Topiramate, Lamotrigine,…)
- Thuốc điều chỉnh khí sắc (Lithium)
- Thuốc chống loạn thần/ an thần kinh
Mục tiêu của điều trị duy trì là ổn định khí sắc và ngăn ngừa bệnh tái phát. Vì phải dùng thuốc dài hạn nên bệnh nhân cần phải kiểm tra chức năng gan – thận thường xuyên để có điều chỉnh kịp thời. Ngoài ra, người nhà cần phải hỗ trợ người bệnh trong việc dùng thuốc để tránh quên sử dụng thuốc, dùng thuốc quá liều và kịp thời phát hiện các tác dụng phụ.
2. Tâm lý trị liệu
Bên cạnh sử dụng thuốc, tâm lý trị liệu cũng là phương pháp quan trọng trong điều trị bệnh hưng trầm cảm. Thông thường, bệnh nhân sẽ được trị liệu cá nhân. Tuy nhiên, rối loạn lưỡng cực là bệnh mãn tính và có khả năng phát triển trong suốt cuộc đời. Do đó, trị liệu nhóm sẽ được cân nhắc để bạn đời và người thân trong gia đình hiểu được cảm xúc và những phiền toái mà người bệnh phải đối mặt.
Mục tiêu của tâm lý trị liệu là tác động về mặt tâm lý giúp người bệnh có sức khỏe tâm thần và thể chất tốt hơn. Tùy vào giai đoạn bệnh, chuyên gia sẽ lựa chọn liệu pháp phù hợp. Đối với bệnh hưng trầm cảm, trị liệu tâm lý còn được thực hiện với mục đích giúp bệnh nhân hiểu vai trò của việc điều trị – đặc biệt là sử dụng thuốc. Bởi bệnh nhân rối loạn lưỡng cực thường không muốn dùng thuốc trong các cơn hưng cảm vì cho rằng thuốc làm giảm khả năng sáng tạo, hưng phấn và khiến bệnh nhân không thể vui vẻ, lạc quan.
Trong các cơn trầm cảm, trị liệu tâm lý giúp bệnh nhân nâng cao lòng tự trọng và có động lực để thực hiện các hoạt động thường ngày cũng như duy trì hiệu suất học tập, làm việc. Ở các cơn hưng cảm, bệnh nhân hầu như không có ý nghĩ hay hành vi tự sát. Tuy nhiên, người bệnh phải đối mặt với nhiều vấn đề sức khỏe do lối sống không lành mạnh, áp lực tài chính và hàng loạt các hậu quả do hành vi liều lĩnh, ngông cuồng.
Trước tiên, chuyên gia sẽ giúp người bệnh ý thức được phải giữ lối sống lành mạnh, tránh sử dụng rượu bia, thuốc ngủ và đảm bảo ăn ngủ đầy đủ dù không có nhu cầu. Để hạn chế những hậu quả về tài chính, cần có người nhà quản lý vấn đề chi tiêu cho người bệnh. Bên cạnh đó, chuyên gia sẽ giúp bệnh nhân hiểu rõ hậu quả phải đối mặt khi quan hệ tình dục không an toàn, đua xe, nói năng không suy nghĩ,…
Các liệu pháp tâm lý trị liệu được áp dụng cho bệnh nhân rối loạn lưỡng cực:
- Liệu pháp hành vi nhận thức
- Liệu pháp tâm lý giáo dục
- Liệu pháp phân tâm học
Ngoài ra, gia đình nên khuyến khích người bệnh tham gia các hội nhóm dành riêng cho bệnh nhân hưng trầm cảm. Kinh nghiệm quý báu từ các bệnh nhân khác sẽ giúp người bệnh biết cách chế ngự và điều chỉnh cảm xúc của chính mình. Đồng thời có kỹ năng đối phó và vượt qua những phiền toái trong cuộc sống do chứng bệnh này gây ra.
3. Các phương pháp khác
Đa phần bệnh nhân hưng trầm cảm đều có đáp ứng tốt với việc dùng thuốc và tâm lý trị liệu. Tuy nhiên, đối với những trường hợp nặng, đã có ý nghĩ và hành vi tự sát, bác sĩ sẽ xem xét một số phương pháp khác.
Các phương pháp có thể được áp dụng cho bệnh nhân rối loạn lưỡng cực:
- Liệu pháp sốc điện: Liệu pháp sốc điện (ECT) được áp dụng trong cơn trầm cảm nặng – đặc biệt là trầm cảm kháng trị. Ngoài ra, một số trường hợp hưng cảm cũng được xem xét liệu pháp này.
- Trị liệu ánh sáng: Trị liệu ánh sáng được áp dụng cho rối loạn lưỡng cực I và II xảy ra theo mùa (thường là nặng vào thu – đông và nhẹ vào mùa xuân – hè). Liệu pháp này sử dụng ánh sáng nhân tạo để thay thế cho ánh mặt trời do vào thời điểm thu đông, cường độ và thời gian chiếu sáng của mặt trời giảm đáng kể. Liệu pháp ánh sáng giúp tăng tổng hợp vitamin D và giảm hormone melatonin, điều này có vai trò trong điều chỉnh cảm xúc và giảm tình trạng uể oải, mất năng lượng.
Chế độ chăm sóc cho bệnh nhân rối loạn lưỡng cực
Hiện tại, căn nguyên và cơ chế bệnh sinh của rối loạn lưỡng cực vẫn chưa được biết rõ. Do đó, rất khó để có thể phòng ngừa bệnh tái phát. Tuy nhiên, bệnh nhân có thể kéo dài thời gian ổn định của bệnh và hạn chế tối đa những ảnh hưởng của các cơn hưng cảm, trầm cảm thông qua các biện pháp sau:
- Chú ý đến những dấu hiệu cảnh báo và thông báo ngay với bác sĩ. Phát hiện và can thiệp sớm sẽ giúp kiểm soát nhanh triệu chứng, đồng thời giảm thiểu tối đa những hậu quả về sức khỏe, tài chính trong các cơn hưng cảm và trầm cảm.
- Tuyệt đối không dùng rượu bia và chất kích thích. Ngoài ra, chỉ sử dụng thuốc an thần khi có chỉ định của bác sĩ. Lạm dụng thuốc và chất gây nghiện có thể gia tăng nguy cơ bệnh tái phát, đồng thời làm nghiêm trọng hóa triệu chứng và thôi thúc mạnh mẽ ý định tự sát.
- Sử dụng thuốc đúng hướng dẫn, không tự ý điều chỉnh liều và tuyệt đối không ngưng thuốc khi chưa có sự cho phép của bác sĩ vì việc dừng thuốc đột ngột có thể gây ra hội chứng cai thuốc.
- Chia sẻ tình trạng sức khỏe của bản thân với những người xung quanh để nhận được sự hỗ trợ khi cần thiết. Đặc biệt, người bệnh cần thành thật với cấp trên để tránh những phiền toái trong công việc.
- Xây dựng lối sống lành mạnh và trang bị cho bản thân những kỹ năng giải tỏa stress.
Rối loạn lưỡng cực là một dạng rối loạn tâm thần mãn tính và nhiều khả năng bệnh nhân phải sống chung suốt đời. Mặc dù chưa có phương pháp tối ưu nhưng hiện tại, điều trị và chăm sóc hợp lý có thể kiểm soát triệu chứng, giúp bệnh nhân giảm thiểu thiệt hại trong các giai đoạn bệnh và ổn định được cuộc sống lâu dài.
Tham khảo thêm:
- Rối Loạn Lo Âu Lan Tỏa: Nguyên Nhân, Chẩn Đoán Và Cách Điều Trị
- Trầm Cảm Khi Mang Thai: Dấu Hiệu Nhận Biết Và Cách Vượt Qua
Trở thành người đầu tiên bình luận cho bài viết này!